Một vài ngôi chùa cổ bạn nên ghé
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Một vài ngôi chùa cổ bạn nên ghé
Bạn muốn biết chùa pháp võ nhà bè vậy thì hãy bỏ ra ít thời gian để cùng chúng tôi tìm hiểu thêm về các ngôi chùa sau đây nhé.
* Chùa Trấn Quốc (Hà Nội)
Toạ lạc ở đường Thanh Niên, quận Ba Đình.
Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất nước ta, tương truyền có từ thời Lý Nam Đế (544 - 548), lúc ấy có tên là Khai Quốc Tự; đến đời Lê Thánh Tông (1440 - 1442), đổi là chùa An Quốc. Đến đời Lê Kính Tông (1600 - 1618), chùa được dời vào hòn đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây, tức địa điểm hiện nay. Đời Lê Hy Tông (1680 - 1705), đổi tên là chùa Trấn Quốc.
Chùa còn giữ được 14 tấm bia, đáng kể là tấm bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính dựng năm 1639 và tấm bia của Tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1815.
Chùa có nhiều tượng đẹp, đáng chú ý là pho tượng đức Phật Thích-ca nhập Niết bàn bằng gỗ thếp vàng.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần.
* Chùa Láng (Hà Nội)
Toạ lạc ở làng Yên Lãng (tên nôm là Láng), thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 6km về phía Tây, chùa có tên chữ là Chiêu Thiền Tự, được dựng từ đời Lý Anh Tông (1138 - 1175), đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc hiện nay là do lần trùng tu vào giữa thế kỷ XIX.
Trong chùa, ngoài các pho tượng phật, có đặt thờ tượng vua Lý Thần Tông và tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Chùa là một danh lam thắng cảnh của thủ đô.
* Chùa Quán Sứ (Hà Nội)
Toạ lạc ở số 73 phố Quán Sứ, quận Hoàn Kiếm, Xưa thuộc địa phận thôn An Tệp, huyện Thọ Xương, Thăng Long.
Sách: 'Đại Nam Nhất Thống Chí' có ghi về chùa: 'Về đời nhà Lê (1428 - 1788), các nước Chiêm Thành, Vạn Tượng. Ai Lao thường cắt sứ giả sang cống nước ta. Nhà vua dựng một ngôi chùa cho sứ giả vào ở (vì những nước kể trên rất sùng đạo Phật) và đặt tên chùa là Quán Sứ để phân biệt với các chùa khác...'.
Chùa đã trải qua bao thay đổi. Tới năm 1934, Tổng hội phật giáo Bắc Kỳ ra đời, đặt trụ sở ở chùa. Chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của 2 kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do tổ Vĩnh Nghiêm duyệt vào năm 1941.
Điện phật chùa được bài trí trang nghiêm. Các pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy.
Lá cờ Phật giáo thế giới lần đầu tiên được treo tại Việt Nam ở chùa Quán Sứ nhân ngày lễ Phật đàn năm 1951, Phật lịch 2495.
Chùa nay là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trường cao cấp Phật học Việt Nam (cơ sở 1).
* Chùa Liên Phái (Hà Nội)
Toạ lạc ở phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng. Theo tài liệu của Sở Văn hoá Thông tin Hà Nôi, chùa thuộc phái Lâm Tế do vị Lâm Giác Thượng Sĩ sáng lập từ năm Bính Ngọ, năm Bảo Thái thứ 7, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1726).
Lâm Giác Thượng Sĩ tên là Trịnh Thập, con trai của Tân Quang Vương, là cháu nội của chúa Trịnh Căn, cưới con gái thứ tư vua Lê Hy Tông. Ông đã sai đào ở gò cao sau nhà để xây bể cạn thì thấy trong lòng đất có cái ngó sen. Phò mã cho mình có duyên với đạo Phật nên đi tu, trở thành vị tổ đầu tiên của chùa, lúc đó gọi là chùa Liên Tông. Đến thời Tự Đức, chùa đổi tên thành Liên Phái để tránh phạm huý.
Tháp Diệu Quang ở bên sau cổng chùa, hình lục lăng cao 10 tầng, xây vào khoảng thế kỷ XIX, trong đó đặt hài cốt tổ Diệu Quang cùng 5 vị sư khác.
* Chùa Đậu (Hà Tây)
Toạ lạc ở thông Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín.
Chùa có tên chữ là Thành Đạo Tự, thờ nữ thần Pháp Vũ nên còn gọi là chùa Pháp Vũ, tương truyền có từ đầu công nguyên cùng thời với chùa Dâu (Hà Bắc). Nhưng theo văn bia ở chùa thì được dựng từ thời Lý. Các triều đại kế tiếp đều có trùng tu, nhất là lần trung tu vào năm Dương Hoà thứ 1 (1635) đời Lê Thần Tông do bà Ngô Thị Ngọc Quyên đứng ra làm hội chủ hưng công.
Chùa dựng theo kiểu: 'Nội Công ngoại quốc'. Tam quan chùa đồng thời là gác chuông, bên trong treo quả đại hồng chung đúc năm Canh Thịnh thứ 9 (1801) đời Tây Sơn. Chùa còn lưu lại nhiều di vật và đồ thờ có giá trị như đôi rồng đá (dáng dấp đời Trần), gạch (đời Mạc), sách đồng (đời Lê), khánh chuông...
Tương truyền 2 vị Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường là người thôn Gia Phúc, sống vào đầu và giữa thế kỷ XVII, đã kế tiếp nhau trụ trì Chùa Đậu. Trước lúc viên tịch, cả 2 vị đều cho biết nhục thân sẽ không bị hư thối. Quả đúng như thế, nhưng lâu về sau, người ta gia thêm vào nhục thân một số kỹ thuật để hạn chế sức phá huỷ của thời gian.
Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh ngôi theo tư thế nhập Thiền, mình gập hẳn, đầu hơi cúi về phía trước. Sau năm 1931, ở đầu có một vết nứt 2mm đã thấy bên trong cùng là xương sọ, tiếp đến khoảng không, rồi lớp bồi dày từ 2 đến 4mm. Chất bồi là đất gò mối mịn trộn sơn sống và mùn cưa giã nhỏ. Sau đó là một lớp sơn màu cánh gián, ngoài cùng là một lượt quang dầu.
Toàn bộ pho tượng hiện nay chỉ còn nặng 7kg, cao 57 cm.
Tượng Thiền sư Vũ Khắc Trường. Theo lời truyền thì Thiền Sư đã khắc tấm bia năm Dương Hoà thứ 5, là người thừa kế thiền sư Vũ Khắc Minh. Tượng được quét sơn trắng, môi tô son, mắt và lông mày được tô vẽ.
Đây là phương pháp giữ xác độc đáo ở Việt Nam, đang còn là điều bí ẩn với các nhà khoa học.
* Chùa Trăm Gian (Hà Tây)
Toạ lạc ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, trên một quả đồi cao khoảng 50m, xung quanh có nhiều cây cổ thụ. Chùa có tên chữ là Quảng Nghiêm Tử, được lập từ thời Lý Cao Tông, niên hiệu Trịnh Phù thứ 10 (1185).
Đến đời Trần có Hoà thượng Bình An, quê ở Bối Khê, tu ở đây được người đời gọi là đức Thánh Bối.
Chùa gọi là Trăm Gian vì có 100 gian theo cách tính 4 cột là 1 gian.
Ở sân chùa có gác chuông 2 tầng 8 mái được dựng vào năm Quý Dậu, niên hiệu Chính Hoà, đời Lê Hy Tông (1693), là một công trình có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn giữ được nhiều di vật, đồ tế khí và tượng quý.
Đây là ngôi chùa đẹp về mặt kiến trúc và khung cảnh thiên nhiên, nên ca dao đã có câu:
Đình So, quân Giá, chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp, chưa tày Trăm Gian
* Chùa Mía (Hà Tây)
Toạ lạc ở làng Mía, xã Dương Lâm, huyện Ba Vì.
Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm Tự, được đại trùng tu vào năm Đức Long thứ 4 (1632) do bà Nguyễn Thị Dong (còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Diệu) , vợ chúa Trịnh đứng ra hưng công.
Chùa có 37 pho tượng lớn nhỏ, một nửa tạc bằng gỗ, một nửa tạc bằng gỗm, một nửa bằng đất luyện, sơn son thếp vàng. Tiêu biểu là Bát bộ Kim Cang bằng đất luyện ở toà thượng điện, là những điển hình nghệ thuật miêu tả dung mạo những con người giàu tinh thần thượng võ. Pho tượng tuyệt tác ở chùa là 'Quan Âm Tống Tử' với đường nét chạm khắc mềm mại, sinh động. Tượng Thuyết Sơn chùa Mía cũng là pho tượng có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn lưu giữ rất nhiều cổ vật, như đại hồng chung đúc năm 1743, khánh đồng đúc năm 1846, bia Bà Chúa Mía dựng năm 1632...
* Chùa Thiên Trù - Hương Sơn (Hà Tây)
Toàn cảnh chùa Hương là một khi vực rộng lớn, có đủ khe suối, núi rừng, hang động, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, cách Hà Nội khoảng 60km.
Chùa Thiên Trù nằm ở Bến Trò, được dựng vào đời Lê Hy Tông, niên hiệu Chánh Hoà năm thứ 7 (1686). Chùa bị đổ năm 19947, nay mới được xây lại và đang tiếp tục công cuộc trùng tu.
Ở chùa có tấm bia cổ dựng vào năm 1686, nói việc nhà sư Viên Quang có công sửa sang động báu Hương Tích và xây dựng ngôi chùa Ngoài. Có 2 ngọn tháp đáng chú ý là tháp Thiên Thuỷ - một khối đã nước mưa bào mòn và tháp Viên Công xây bằng gạch cổ.
Chùa Hương là một danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt Nam. Động Hương Tích được gọi là 'Nam Thiên Đệ Nhất Động'.
Ngoài ra nếu các bạn muốn biết thêm về chùa pháp võ thì hãy nhanh tay liên hệ hoặc truy cập ngay vào website của chúng tôi ngay nhé.
* Chùa Trấn Quốc (Hà Nội)
Toạ lạc ở đường Thanh Niên, quận Ba Đình.
Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất nước ta, tương truyền có từ thời Lý Nam Đế (544 - 548), lúc ấy có tên là Khai Quốc Tự; đến đời Lê Thánh Tông (1440 - 1442), đổi là chùa An Quốc. Đến đời Lê Kính Tông (1600 - 1618), chùa được dời vào hòn đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây, tức địa điểm hiện nay. Đời Lê Hy Tông (1680 - 1705), đổi tên là chùa Trấn Quốc.
Chùa còn giữ được 14 tấm bia, đáng kể là tấm bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính dựng năm 1639 và tấm bia của Tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1815.
Chùa có nhiều tượng đẹp, đáng chú ý là pho tượng đức Phật Thích-ca nhập Niết bàn bằng gỗ thếp vàng.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần.
* Chùa Láng (Hà Nội)
Toạ lạc ở làng Yên Lãng (tên nôm là Láng), thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 6km về phía Tây, chùa có tên chữ là Chiêu Thiền Tự, được dựng từ đời Lý Anh Tông (1138 - 1175), đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc hiện nay là do lần trùng tu vào giữa thế kỷ XIX.
Trong chùa, ngoài các pho tượng phật, có đặt thờ tượng vua Lý Thần Tông và tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Chùa là một danh lam thắng cảnh của thủ đô.
* Chùa Quán Sứ (Hà Nội)
Toạ lạc ở số 73 phố Quán Sứ, quận Hoàn Kiếm, Xưa thuộc địa phận thôn An Tệp, huyện Thọ Xương, Thăng Long.
Sách: 'Đại Nam Nhất Thống Chí' có ghi về chùa: 'Về đời nhà Lê (1428 - 1788), các nước Chiêm Thành, Vạn Tượng. Ai Lao thường cắt sứ giả sang cống nước ta. Nhà vua dựng một ngôi chùa cho sứ giả vào ở (vì những nước kể trên rất sùng đạo Phật) và đặt tên chùa là Quán Sứ để phân biệt với các chùa khác...'.
Chùa đã trải qua bao thay đổi. Tới năm 1934, Tổng hội phật giáo Bắc Kỳ ra đời, đặt trụ sở ở chùa. Chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của 2 kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do tổ Vĩnh Nghiêm duyệt vào năm 1941.
Điện phật chùa được bài trí trang nghiêm. Các pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy.
Lá cờ Phật giáo thế giới lần đầu tiên được treo tại Việt Nam ở chùa Quán Sứ nhân ngày lễ Phật đàn năm 1951, Phật lịch 2495.
Chùa nay là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trường cao cấp Phật học Việt Nam (cơ sở 1).
* Chùa Liên Phái (Hà Nội)
Toạ lạc ở phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng. Theo tài liệu của Sở Văn hoá Thông tin Hà Nôi, chùa thuộc phái Lâm Tế do vị Lâm Giác Thượng Sĩ sáng lập từ năm Bính Ngọ, năm Bảo Thái thứ 7, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1726).
Lâm Giác Thượng Sĩ tên là Trịnh Thập, con trai của Tân Quang Vương, là cháu nội của chúa Trịnh Căn, cưới con gái thứ tư vua Lê Hy Tông. Ông đã sai đào ở gò cao sau nhà để xây bể cạn thì thấy trong lòng đất có cái ngó sen. Phò mã cho mình có duyên với đạo Phật nên đi tu, trở thành vị tổ đầu tiên của chùa, lúc đó gọi là chùa Liên Tông. Đến thời Tự Đức, chùa đổi tên thành Liên Phái để tránh phạm huý.
Tháp Diệu Quang ở bên sau cổng chùa, hình lục lăng cao 10 tầng, xây vào khoảng thế kỷ XIX, trong đó đặt hài cốt tổ Diệu Quang cùng 5 vị sư khác.
* Chùa Đậu (Hà Tây)
Toạ lạc ở thông Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín.
Chùa có tên chữ là Thành Đạo Tự, thờ nữ thần Pháp Vũ nên còn gọi là chùa Pháp Vũ, tương truyền có từ đầu công nguyên cùng thời với chùa Dâu (Hà Bắc). Nhưng theo văn bia ở chùa thì được dựng từ thời Lý. Các triều đại kế tiếp đều có trùng tu, nhất là lần trung tu vào năm Dương Hoà thứ 1 (1635) đời Lê Thần Tông do bà Ngô Thị Ngọc Quyên đứng ra làm hội chủ hưng công.
Chùa dựng theo kiểu: 'Nội Công ngoại quốc'. Tam quan chùa đồng thời là gác chuông, bên trong treo quả đại hồng chung đúc năm Canh Thịnh thứ 9 (1801) đời Tây Sơn. Chùa còn lưu lại nhiều di vật và đồ thờ có giá trị như đôi rồng đá (dáng dấp đời Trần), gạch (đời Mạc), sách đồng (đời Lê), khánh chuông...
Tương truyền 2 vị Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường là người thôn Gia Phúc, sống vào đầu và giữa thế kỷ XVII, đã kế tiếp nhau trụ trì Chùa Đậu. Trước lúc viên tịch, cả 2 vị đều cho biết nhục thân sẽ không bị hư thối. Quả đúng như thế, nhưng lâu về sau, người ta gia thêm vào nhục thân một số kỹ thuật để hạn chế sức phá huỷ của thời gian.
Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh ngôi theo tư thế nhập Thiền, mình gập hẳn, đầu hơi cúi về phía trước. Sau năm 1931, ở đầu có một vết nứt 2mm đã thấy bên trong cùng là xương sọ, tiếp đến khoảng không, rồi lớp bồi dày từ 2 đến 4mm. Chất bồi là đất gò mối mịn trộn sơn sống và mùn cưa giã nhỏ. Sau đó là một lớp sơn màu cánh gián, ngoài cùng là một lượt quang dầu.
Toàn bộ pho tượng hiện nay chỉ còn nặng 7kg, cao 57 cm.
Tượng Thiền sư Vũ Khắc Trường. Theo lời truyền thì Thiền Sư đã khắc tấm bia năm Dương Hoà thứ 5, là người thừa kế thiền sư Vũ Khắc Minh. Tượng được quét sơn trắng, môi tô son, mắt và lông mày được tô vẽ.
Đây là phương pháp giữ xác độc đáo ở Việt Nam, đang còn là điều bí ẩn với các nhà khoa học.
* Chùa Trăm Gian (Hà Tây)
Toạ lạc ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, trên một quả đồi cao khoảng 50m, xung quanh có nhiều cây cổ thụ. Chùa có tên chữ là Quảng Nghiêm Tử, được lập từ thời Lý Cao Tông, niên hiệu Trịnh Phù thứ 10 (1185).
Đến đời Trần có Hoà thượng Bình An, quê ở Bối Khê, tu ở đây được người đời gọi là đức Thánh Bối.
Chùa gọi là Trăm Gian vì có 100 gian theo cách tính 4 cột là 1 gian.
Ở sân chùa có gác chuông 2 tầng 8 mái được dựng vào năm Quý Dậu, niên hiệu Chính Hoà, đời Lê Hy Tông (1693), là một công trình có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn giữ được nhiều di vật, đồ tế khí và tượng quý.
Đây là ngôi chùa đẹp về mặt kiến trúc và khung cảnh thiên nhiên, nên ca dao đã có câu:
Đình So, quân Giá, chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp, chưa tày Trăm Gian
* Chùa Mía (Hà Tây)
Toạ lạc ở làng Mía, xã Dương Lâm, huyện Ba Vì.
Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm Tự, được đại trùng tu vào năm Đức Long thứ 4 (1632) do bà Nguyễn Thị Dong (còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Diệu) , vợ chúa Trịnh đứng ra hưng công.
Chùa có 37 pho tượng lớn nhỏ, một nửa tạc bằng gỗ, một nửa tạc bằng gỗm, một nửa bằng đất luyện, sơn son thếp vàng. Tiêu biểu là Bát bộ Kim Cang bằng đất luyện ở toà thượng điện, là những điển hình nghệ thuật miêu tả dung mạo những con người giàu tinh thần thượng võ. Pho tượng tuyệt tác ở chùa là 'Quan Âm Tống Tử' với đường nét chạm khắc mềm mại, sinh động. Tượng Thuyết Sơn chùa Mía cũng là pho tượng có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn lưu giữ rất nhiều cổ vật, như đại hồng chung đúc năm 1743, khánh đồng đúc năm 1846, bia Bà Chúa Mía dựng năm 1632...
* Chùa Thiên Trù - Hương Sơn (Hà Tây)
Toàn cảnh chùa Hương là một khi vực rộng lớn, có đủ khe suối, núi rừng, hang động, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, cách Hà Nội khoảng 60km.
Chùa Thiên Trù nằm ở Bến Trò, được dựng vào đời Lê Hy Tông, niên hiệu Chánh Hoà năm thứ 7 (1686). Chùa bị đổ năm 19947, nay mới được xây lại và đang tiếp tục công cuộc trùng tu.
Ở chùa có tấm bia cổ dựng vào năm 1686, nói việc nhà sư Viên Quang có công sửa sang động báu Hương Tích và xây dựng ngôi chùa Ngoài. Có 2 ngọn tháp đáng chú ý là tháp Thiên Thuỷ - một khối đã nước mưa bào mòn và tháp Viên Công xây bằng gạch cổ.
Chùa Hương là một danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt Nam. Động Hương Tích được gọi là 'Nam Thiên Đệ Nhất Động'.
Ngoài ra nếu các bạn muốn biết thêm về chùa pháp võ thì hãy nhanh tay liên hệ hoặc truy cập ngay vào website của chúng tôi ngay nhé.
tuvynguyen09- Thiếu Tướng
- Tổng số bài gửi : 1252
Tuổi : 34
Đăng ký ngày : 12/09/2018
Danh tiếng : 10
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết